Thứ Hai, 1 tháng 1, 2001

Một số bệnh về da ở trẻ sơ sinh

Những nốt ban trên da có thể xuất hiện cả vào mùa hè hay mùa đông, kéo dài vài ngày hoặc vài tuần sau khi bé chào đời, cũng có khi bé còn phải đối mặt với chứng viêm mủ hoặc chốc lở trên da. Dưới đây là một số bệnh về da thường gặp ở trẻ sơ sinh.

Phát ban đỏ

Vài ngày sau khi chào đời, bé có thể xuất hiện những mảng ban, còn được gọi là “phát ban đỏ”. Những nốt ban trông hơi giống nốt muỗi cắn, có kèm theo đầu mủ màu trắng vàng trên mỗi nốt ban. Ban thường nổi trên người bé nhưng cũng có khi chúng xuất hiện trên mặt, tay và chân. Những nốt ban này xuất hiện trong vòng một thời gian ngắn nên bạn không cần lo lắng và cũng không cần phải điều trị cho bé.

Nên tránh cạy (hoặc ép) nốt ban vì bạn có thể khiến da bé bị nhiễm khuẩn. Chứng ban đỏ thường tự biến mất sau khi bé được khoảng 7 - 10 ngày tuổi.

Nên giữ vệ sinh da thật tốt cho trẻ.

Rôm sảy

Là những nốt nhỏ, có màu đỏ và thường tập hợp thành từng đám trên da. Chúng có xu hướng “sinh sống” trên đầu, cổ và thân mình, đặc biệt là những vùng da gấp (nơi mà không khí khó lưu thông) trên cơ thể bé. Quần áo quá chật hoặc dày sẽ khiến chứng rôm sảy ở bé tồi tệ hơn. Vì thế, bạn nên mặc trang phục mỏng, nhẹ, thấm mồ hôi cho bé. Phần lớn các bé đều mắc chứng rôm sảy, cho dù đó là mùa nào trong năm, ngay khi bé vừa tiếp xúc với môi trường sống bên ngoài tử cung mẹ.

Nổi ban do hormone

Sự thay đổi hormone có thể gây nên những nốt ban nhỏ trắng trên mặt, tai và lông mày của bé. Đây là loại hormone được sản xuất ra trong quá trình mẹ chuyển dạ, nó có chức năng kích thích tuyến dầu dưới da của bé, dẫn tới những nốt ban. Ban do hormone còn được biết đến với cái tên “ban sữa”. Nhìn chung, chứng phát ban trong vòng một tháng đầu tiên ở bé không gây hại và nó sẽ nhanh chóng biến mất để trả lại cho bé một làn da khỏe đẹp. Bạn cũng không cần phải thay đổi chế độ ăn (khi bạn đang trong giai đoạn cho bé “ti mẹ” hoặc đổi sữa ngoài). Sau 3 tháng, chứng phát ban ở bé có thể xảy đến khi một vùng da trên cơ thể của bé tiếp xúc với nước tiểu, phân, nước bọt hoặc mồ hôi. Nếu vùng da bị ban ngày một lan rộng (gần như bao phủ cả người bé) thì nguyên nhân gây ban trong trường hợp này có thể liên quan đến việc dùng thuốc ở bé. Nếu phát ban kèm theo những triệu chứng bệnh, bạn nên đưa bé đi khám.

Viêm mủ da

Là những vết tẩy nhỏ trông giống như mụn mủ xuất hiện trên da của bé. Chúng được gây ra bởi vi khuẩn staphylococcus và thường xuất hiện ở vùng da gấp là cổ và dưới cánh tay. Viêm mủ da có thể bị nhầm lẫn với chứng phát ban đỏ, trừ khi nó không tự nhiên biến mất mà kéo dài; khi ấy, bạn nên đưa bé đi khám. Nếu khỏe mạnh và được chăm sóc tốt, bé sẽ nhanh chóng khỏi viêm da mà không cần điều trị tại bệnh viện. Bác sĩ sẽ chỉ định cho bạn sử dụng một số kem bôi ngoài da cho bé. Nếu bé sinh mổ, sức khỏe yếu hoặc những nốt viêm da lan rộng, bác sĩ có thể cho bé dùng kháng sinh.

Bệnh chốc lở

Trông giống như những vết phồng rộp trên da, kèm theo mủ màu vàng. Bệnh này dễ lây lan từ bé này sang bé khác (khi bé còn nằm trong bệnh viện), lây từ người chăm sóc bé sang bé... Bệnh gây ra bởi một loại vi khuẩn và thường khiến bé khởi phát bệnh khoảng 2 - 5 ngày sau khi bé bị vi khuẩn xâm nhập vào da.

BS. NGỌC HUÊ

Lợn mắc bệnh `lọt` qua khâu kiểm dịch gây nguy hiểm thế nào?

Có hay không cán bộ kiểm dịch thú y thông đồng, tiếp tay gieo rắc mầm bệnh cho cộng đồng và giúp người dân hiểu hơn về mức độ nguy hiểm và các loại bệnh lây từ lợn sang người và cách phòng tránh. Số lợn bị bệnh từ trước đến nay tại lò mổ này được cán bộ kiểm dịch thú y "cho qua" , mặc dù chưa rõ số lợn này mắc bệnh gì, chúng đã nhanh chóng được đưa đến đã đến các quán ăn, nhà hàng và vào từng bữa ăn của các gia đình. Hiện chưa có thống kê nào về bệnh từ lợn lây sang người tại Quảng Bình. Nhưng đây là một việc làm vi phạm pháp luật và gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng. Những con lợn bệnh đã âm thầm được đưa đi khắp hang cùng ngõ hẻm, reo rắc mầm bệnh cho cộng đồng. Thiết nghĩ, các cơ quan chức năng cần vào cuộc làm rõ trách nhiệm của các cán bộ thú y này và có biện pháp chẩn chỉnh các lò mổ lợn để góp phần bảo vệ sức khỏe người dân.

Lợn bị bệnh chuẩn bị được đưa vào lò mổ ở Quảng Bình

Phóng viên báo SK&ĐS đã tìm hiểu qua nhiều chuyên gia về y tế, thú y... cho biết: Có 5 bệnh nguy hiểm lây phổ biến:

Bệnh lở mồm long móng: bệnh có thể lây sang người qua đường tiếp xúc ăn uống, virus khi lây nhiễm gây bệnh có thể làm viêm niêm mạc miệng, lở môi, lở miệng... cho người. Thông thường trên miếng thịt đã được cắt ra không thể biết được là từ heo mắc bệnh lở mồm long móng; vì vậy tốt nhất là phải nấu chín thịt thật kỹ để loại trừ mầm bệnh. Ăn tiết canh sống, thịt lợn tái chưa nấu kỹ, nguy cơ lây bệnh lên tới gần 100%.

Lò mổ nhếch nhác, bẩn thỉu kém vệ sinh vẫn được mổ lợn đưa ra thị trường

Bệnh viêm màng não mủ, nhiễm trùng huyết: là 2 căn bệnh dễ lây từ lợn. Những người bị viêm màng não mủ và nhiễm trùng huyết do vi khuẩn Streptococcus suis có thể dẫn đến tử vong từ lợn lây sang người do ăn tiết canh sống, lòng lợn, thịt không đảm bảo vệ sinh.

Nhiễm giun xoắn: đây là bệnh truyền nhiễm cấp hoặc bán cấp tính do ấu trùng giun xoắn gây ra, nếu không điều trị kịp thời, bệnh sẽ có những biến chứng nguy hiểm, thậm chí là tử vong. Giun nhiễm từ lợn sang người khi người ăn phải thịt lợn có ấu trùng chưa được nấu chín do ăn các món như nem sống làm từ thịt lợn, ăn thịt lợn tái, thịt hun khói hoặc ướp muối, ăn tiết canh lợn.

Bệnh lợn tai xanh: Đây là căn bệnh thường gây ra đại dịch và làm chết lợn hàng loạt. Bệnh lợn tai xanh không lây sang người nhưng có gần 70% virus này kết hợp với các bệnh khác như cúm lợn, tụ huyết trùng, tả, thương hàn và có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.

Bệnh liên cầu khuẩn: là bệnh truyền nhiễm có thể xảy ra ở hầu hết các loài động vật máu nóng, trong đó có lợn. Căn bệnh này rất dễ lây nhiễm sang người khi ăn phải tiết canh lợn bị bệnh liên cầu, thực tế ở nước ta, trên 70% bệnh nhân mắc liên cầu khuẩn lợn là do ăn tiết canh lợn hoặc thịt chưa được nấu chín. Ngoài ra, bệnh còn lây qua đường hô hấp do hít phải liên cầu khuẩn trong không khí do lợn ho hoặc người dân có thói quen ngửi thịt trước khi mua.

Người bị bệnh liên cầu khuẩn từ lợn thường mắc ở hai thể: Ở thể cấp tính, bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết, sốt cao, xuất huyết và hoại tử toàn thân, suy tuần hoàn, suy hô hấp, suy chức năng gan, thận… và tử vong rất nhanh. Ở thể viêm màng não, bệnh nhân sốt cao, đau đầu, nôn mửa và hôn mê, nếu không điều trị sớm bệnh nhân sẽ có di chứng thần kinh như ngớ ngẩn, mất trí nhớ, liệt.

Do vậy, bà con không nên ăn tiết canh sống, thịt lợn tái, ngửi hít khi mua thịt lợn và đến cơ sở y tế khám ngay khi có dấu hiệu bất thường sau khi ăn thịt lợn.

Trần Ánh Dương

Những thói quen xấu của mẹ bầu ảnh hưởng đến trẻ

Đi ngủ muộn

Đồng hồ sinh học của trẻ được thiết lập từ khi còn là bào thai, chính vì vậy, việc mẹ thức khuya, dậy sớm cũng ảnh hưởng đến bé. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, người mẹ thường xuyên thức khuya, chơi đêm sẽ sinh ra những đứa trẻ có xu hướng ngủ đêm ít hơn và thậm chí còn khó tính hơn. Bà mẹ mang thai đi ngủ đúng giờ và có giấc ngủ đêm đủ giấc cũng giúp trẻ sau khi chào đời có thói quen ăn ngủ giống bố mẹ.

Trong thời gian mang thai, mẹ nên từ bỏ những thói quen xấu, dành thời gian nghỉ ngơi đặc biệt là đi ngủ đủ giấc và đúng giờ. Mẹ cần ngủ ít nhất 8 giờ mỗi ngày và có thêm 1 giờ nghỉ trưa. Ngoài ra, mẹ bầu cũng cần tránh xa rượu, thuốc lá, những nơi quá ồn ào để không ảnh hưởng xấu đến bé.

Trong thời gian mang thai, mẹ bầu nên từ bỏ những thói quen xấu

Trong thời gian mang thai, mẹ bầu nên từ bỏ những thói quen xấu

Hay cáu gắt, căng thẳng

Chúng ta đều biết rằng tính cách của thai nhi bị ảnh hưởng rất lớn từ tính cách và tâm trạng của mẹ bầu. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tâm trạng của mẹ thường xuyên stress khi mang bầu có thể dẫn đến những thay đổi trong môi trường vật lý và truyền đến bé qua nhau thai, đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến tính cách của trẻ.

Nếu mẹ bầu thường xuyên ủ rũ, chán nản hay buồn bã thì đứa trẻ sau này sinh ra chắc chắn sẽ không thể hay cười và cũng buồn như mẹ.

Việc duy trì một tâm trạng tốt khi mang thai là rất cần thiết. Mẹ nên tạo tâm lý thoải mái, tránh căng thẳng trong công việc và cuộc sống, đồng thời nên chăm chỉ tập luyện thể thao. Mẹ nên dành 30 phút mỗi ngày để đi bộ hoặc tập những môn thể thao mình yêu thích. Nếu mẹ thực sự cảm thấy mệt mỏi, chán nản, hãy dành thời gian nghỉ ngơi hoặc tâm sự với người thân, bạn bè. Trong sinh hoạt hàng ngày, mẹ bầu cũng nên cải thiện tâm trạng bằng cách xem phim hài, đọc truyện cười hoặc làm những hoạt động mình yêu thích… sẽ giúp cải thiện tâm trạng rất tốt.

Ít vận động


Khi mang thai, nhiều thai phụ thường nghĩ rằng đây là thời gian mình cần được nghỉ ngơi nhiều và gia đình cũng ưu tiên hết mức. Vì vậy, thai phụ thường không làm việc và chỉ nằm một chỗ. Đây chính là quan niệm hoàn toàn sai lầm và dễ sinh ra những đứa trẻ kém phát triển.

Thực tế, thai phụ và em bé có sự kết nối thông tin rất mật thiết. Khi mẹ làm việc, suy nghĩ đầu óc hay vận động chân tay thì em bé đều cảm nhận được và đó như sợi dây vô tình kết nối hai mẹ con. Mẹ lười học tập, lao động sẽ sinh ra những em bé cũng sẽ lười biếng, kém phát triển trí não.

Hãy để bộ não của bạn làm việc cho dù bạn đang bầu bí vì như thế sẽ giúp não bộ của bé cũng được kích thích đấy. Mẹ hãy cứ đọc sách, nghe nhạc, thậm chí là suy nghĩ về công việc để thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của thai nhi.

Ăn uống không đủ hoặc không đúng bữa


Việc mẹ kén ăn có thể ảnh hưởng đến sự dung nạp dinh dưỡng cho cơ thể, khiến cơ thể không đủ chất. Hơn thế nữa, chế độ ăn không đủ chất của mẹ còn ảnh hưởng đến sở thích ăn uống của bé nữa. Vì thế, mẹ tuyệt đối không nên chỉ ưu tiên những thực phẩm mình thích mà bỏ qua những món ăn giàu dưỡng chất khác. Điều này không tốt với sự hình thành sở thích ăn uống của bé chút nào.

Một số thai phụ kén ăn cũng có thể khiến thai phụ bị thiếu hụt chất dinh dưỡng nhất định. Chẳng hạn như thiếu axit folic vào đầu thai kỳ có thể gây dị tật thai nhi, dị tật ống thần kinh. Vì vậy, trong quá trình mang thai, bà mẹ nên cố gắng ăn đủ bữa, đúng giờ, sinh hoạt điều độ và nên kiểm tra sức khỏe thường xuyên để phát hiện bệnh và được tư vấn các biện pháp phòng và điều trị để bé khi sinh ra phát triển hoàn thiện.

(Theo Tatra, Metrol, The Time)

Lưu Minh Quân

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Những điều ít biết về bệnh tự kỷ

Dưới đây là những điều bạn có thể không biết về rối loạn tự kỷ ở trẻ em.

Có thể chẩn đoán bệnh từ rất sớm

Hầu hết các chẩn đoán xảy ra ở 24 tháng hoặc lớn hơn, lúc đó chẩn đoán được xem là rất đáng tin cậy, thế nhưng rối loạn này có thể được phát hiện sớm hơn khi trẻ dưới 18 tháng tuổi. Không có xét nghiệm y khoa hoặc xét nghiệm máu cho chứng tự kỷ, vì vậy, các bác sĩ thường đánh giá hành vi của trẻ thông qua sàng lọc phát triển và sau đó là đánh giá chẩn đoán toàn diện, bao gồm các xét nghiệm thính giác, thị lực và thần kinh. Bác sĩ cũng có thể đề nghị trẻ được thăm khám bởi một chuyên gia nhi khoa khác để hỗ trợ cho chẩn đoán chứng tự kỷ.

Có rất nhiều triệu chứng

Triệu chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD) có thể khác nhau (từ nhẹ đến nặng) tùy thuộc vào từng cá nhân.Tuy nhiên, các triệu chứng của rối loạn này nói chung có khuynh hướng liên quan đến kỹ năng giao tiếp và hành vi xã hội, như cực kỳ lén lút, không muốn chơi với các trẻ khác hoặc không liên lạc bằng mắt. Trẻ có rối loạn phổ tự kỷ có thể lặp lại các hành vi nhất định (như vỗ tay) nhiều lần hoặc chúng có thể bị ám ảnh bởi một đồ chơi đặc biệt. Thiếu kỹ năng nói là một trong những triệu chứng nổi bật nhất (20 - 30% người có ASD được ước tính là không nói), nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Một gợi ý cho cha mẹ để nhận diện sớm trẻ tự kỷ là trẻ rất nhạy cảm với tiếng ồn, thể hiện cơn cáu giận một cách dữ dội, không trả lời, không bị “hấp dẫn” bởi các vật thể thú vị trước 18 tháng.

Những điều ít biết về bệnh tự kỷ

Trẻ mắc tự kỷ thường dễ mắc thêm bệnh lý khác.

Tỷ lệ dường như đang tăng lên

Số liệu thống kê về chứng tự kỷ có thể thay đổi nhưng Trung tâm Kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) ước tính khoảng 1 trong số 68 trẻ em ở Hoa Kỳ mắc chứng rối loạn tự kỷ trong giai đoạn 2000-2010 so với 1 trong 150 trường hợp vào năm 2000. Nguyên nhân được đưa ra có thể là do sự gia tăng nhận thức chung của tất cả mọi người về bệnh lý này đối với cuộc sống của đứa trẻ và cũng có thể do tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đang thay đổi dẫn đến nhiều trẻ được xác định bệnh hơn.

Trẻ trai có nhiều khả năng mắc bệnh hơn

Các rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ trai được chẩn đoán cao gấp 4,5 lần so với trẻ gái. Nguyên nhân được cho là trẻ gái ít được quan tâm đến vấn đề này hơn so với trẻ trai. Khi một trẻ gái nhút nhát, không nói chuyện hay chỉ thích chơi một mình thì người ta thường cho rằng đó là tính cách của con gái nên sẽ không có vấn đề gì. Nhưng đối với trẻ trai, dường như mọi người có quan niệm rằng chúng thường nghịch ngợm, chạy nhảy, chơi với bạn bè nên khi thấy trẻ không muốn chơi với bạn bè của mình thì lập tức được chú ý đúng mức với các chẩn đoán của bác sĩ.

Tự kỷ có thể bắt đầu trước khi sinh

Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa biết chính xác nguyên nhân gây ra chứng tự kỷ. Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng sự kết hợp các yếu tố di truyền và môi trường làm tăng nguy cơ phát triển chứng rối loạn phổ tự kỷ nhưng vẫn còn nhiều điều chưa biết. Gần đây, đã có bằng chứng mới cho thấy trẻ em có thể bắt đầu phát triển chứng tự kỷ trước khi chúng được sinh ra dựa vào sự phát triển các tế bào não. Một số yếu tố nguy cơ dẫn đến trẻ mắc tự kỷ có thể dự đoán trước khi sinh như người mẹ dùng thuốc điều trị động kinh trong thời kỳ mang thai, người mẹ lớn tuổi hay có anh chị em ruột bị chứng tự kỷ.

Trẻ tự kỷ có nhiều khả năng mắc các bệnh khác

Khoảng 2% người mắc chứng ASD có triệu chứng nhiễm sắc thể X dễ gãy (hội chứng Fragile X) gây tình trạng khuyết tật trí tuệ. Ngoài ra, khoảng 39% người tự kỷ mắc chứng động kinh khi họ trưởng thành. Hơn nữa, những người có ASD cũng có thể dễ bị lo lắng, tăng động giảm chú ý (ADHD), trầm cảm, các vấn đề về ngủ, dị ứng và các vấn đề về dạ dày.

Vắc-xin không gây ra chứng tự kỷ

Sở dĩ có nghi vấn vắc-xin gây ra chứng tự kỷ là từ một nghiên cứu nhỏ năm 1998 tại Mỹ tuyên bố tìm thấy mối liên quan giữa vắc-xin phòng sởi, quai bị và chứng tự kỷ nhưng nghiên cứu này đã bị coi là thiếu sót và tạp chí xuất bản nghiên cứu này cũng đã thu hồi lại nó. Bên cạnh đó, thimerosal - một thành phần vắc-xin khác cũng đã từng được coi là nguyên nhân làm tăng nguy cơ tự kỷ cũng không liên quan đến ASD và từ năm 2001, thành phần này đã không có trong vắc-xin nữa. Và nghiên cứu tiếp theo đã liên tục khẳng định vắc-xin an toàn và không có mối liên hệ giữa tiêm chủng cho trẻ em và chứng tự kỷ.

Can thiệp sớm là chìa khóa

Không có phương pháp chữa bệnh tự kỷ nhưng sự can thiệp sớm có thể giúp trẻ em tự kỷ phát triển mạnh. Ứng dụng phân tích hành vi (ABA) và nghề nghiệp, ngôn từ và các liệu pháp vật lý thường được sử dụng. ABA có thể được áp dụng nhiều nhất do nó hoạt động bằng cách xác định các lý do tại sao trẻ em bị tự kỷ thường có những hành động bất thường, chẳng hạn như sự giận dữ và vẫy tay thường bị kích hoạt bởi sự thất vọng của việc không thể diễn tả rằng mình đang đói. Việc trẻ càng sớm được chẩn đoán và chữa trị tự kỷ càng có nhiều lợi thế khi giao tiếp và kỹ năng xã hội. Ngoài ra, cũng có những loại thuốc giúp quản lý một số triệu chứng của ASD như thuốc chống trầm cảm, thuốc chống động kinh hoặc thuốc tăng cường sự tập trung.

Khánh Xuân

((Theo health.com))

Vì sao mùa hè vẫn cần uống nước ấm?

- Khi uống đồ uống lạnh, cơ thể bạn phải tập trung điều tiết nhiệt độ. Điều này sẽ làm chậm quá trình hấp thu chất dinh dưỡng.

- Ngoài ra, hàm lượng chất béo trong những thực phẩm bạn ăn có thể được cứng hóa khi bạn dùng nước có đá trong bữa ăn. Vì vậy, nó có thể làm chậm quá trình tiêu hóa mỡ.

- Đồ uống lạnh có xu hướng làm co các mạch máu. Trên thực tế, quá trình tiêu hóa sẽ bị chậm lại và cơ thể không được hydrat hóa thích hợp với nước lạnh.

Vi-sao-mua-he-van-can-uong-nuoc-am

- Bạn có thể bị lạnh sau khi uống nước lạnh. Nước lạnh làm cho hệ miễn dịch của bạn yếu đi vì nhiều chất nhầy được tạo ra trong cơ thể nếu bạn uống nước đá sau một bữa ăn no.

- Cơ thể sẽ được thải độc tốt hơn với nước ấm. Nước ấm tốt cho thận, máu và làn da của bạn.

- Khi bạn uống nước ấm, thực phẩm sẽ được tiêu hóa dễ dàng. Vì vậy cơ thể sẽ đủ nước.

- Nhu động ruột có xu hướng tốt hơn với nước ấm. Uống nước chanh ấm buổi sáng là một thói quen tốt bạn nên duy trì.

BS. Tuyết Mai/Univadis

(theo Boldsky)

Cắt amidan có hết viêm họng không?

Trần Thị Nhung(Thanh Hóa)

Nhiều người bị viêm họng thường sưng amidan. Nhưng không phải hễ viêm họng là sưng amidan. Chẳng hạn các trường hợp viêm họng mà không có sưng amidan như: viêm họng do cảm lạnh, do dị ứng với thời tiết, viêm họng trong bệnh cúm. Amidan là tổ chức lympho ở vùng hầu họng, nằm ở hai bên lưỡi gà. Người ta cắt amidan trong các trường hợp: bị viêm amidan nhiều lần hay tái phát, amidan quá to ảnh hưởng đến thở và nuốt, amidan là ổ nhiễm khuẩn. Viêm họng là do nhiễm khuẩn bởi các loại vi khuẩn thường gặp như: liên cầu, tụ cầu, nấm… không liên quan đến tuyến amidan.

Nên dù có cắt amidan hay không thì bệnh viêm họng vẫn có thể xảy ra. Việc điều trị viêm họng do nhiễm khuẩn cần dùng kháng sinh thích hợp, kết hợp các thuốc chữa triệu chứng như thuốc hạ nhiệt giảm đau chống viêm, thuốc ho, thuốc giảm tiết đờm, mà không cần phải cắt amidan. Do đó lần sau con bạn bị viêm họng, bạn nên đưa cháu đi khám ở bệnh viện để được chẩn đoán và điều trị đúng. Nếu cần cắt amidan thì bác sĩ sẽ chỉ định cắt cho cháu. Hiện nay đã sang mùa đông, bạn cần cho con mặc ấm và luôn giữ ấm vùng cổ để tránh bị viêm họng.

BS. Nguyễn Thị Loan

Biểu hiện khi mắc cúm

Phạm Thị Thuý(phamthuy@gmail.com)

Trên lâm sàng bệnh cúm biểu hiện ở mỗi người có khác nhau. Một số thể nhẹ có thể không rõ triệu chứng hoặc giống cảm lạnh chỉ có hắt hơi, sổ mũi, ho, nhưng có thể gặp thể nặng, rất nặng do biến chứng hô hấp, tim mạch, thần kinh. Thể thường gặp là sau thời gian nung bệnh ngắn, khoảng một ngày, bệnh khởi phát rất đột ngột: sốt, rét run nhiều lần trong ngày, thân nhiệt tăng lên 39-400 ngay ngày đầu, kéo dài 3-5 ngày kèm theo là mệt mỏi, đau nhức toàn thân, đầu đau như búa bổ, đau các cơ xương khớp, chân tay rã rời, da khô nóng, mặt bừng bừng, mắt chói, chảy nước mắt, sổ mũi, ngạt mũi, đau rát họng, có khi ho tức ngực, khạc đờm hoặc chảy máu cam, miệng đắng, buồn nôn, táo bón. Sau đó nhiệt độ giảm dần, các triệu chứng toàn thân giảm dần trong 5-7 ngày. Về điều trị: vì cúm là do virut do vậy hiện nay không có thuốc điều trị đặc hiệu mà chủ yếu điều trị triệu chứng bằng các thuốc giảm đau, hạ sốt, thuốc chống ngạt mũi, thuốc chống dị ứng để giảm ho và giảm tiết chất nhày, thuốc xịt mũi co mạch để dễ thở. Thời gian trung bình các kháng thể tiêu diệt hoàn toàn virut cúm thường kéo dài hàng tuần có khi hơn. Do đó, người mắc cúm chỉ khỏi hoàn toàn sau khoảng 10 -14 ngày, có khi cảm giác khó chịu kéo dài hàng tháng. Do vậy khi có triệu chứng nghi cúm cần đi khám sớm để xác định bệnh và được hướng dẫn điều trị phù hợp thì bệnh mới nhanh khỏi.

BS. Vũ Lan Anh

Một số bệnh về da ở trẻ sơ sinh

Những nốt ban trên da có thể xuất hiện cả vào mùa hè hay mùa đông, kéo dài vài ngày hoặc vài tuần sau khi bé chào đời, cũng có khi bé còn ph...